Kẻ Sĩ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Kẻ Sĩ

vô kỷ - vô công
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Đào Duy Từ gặp người tri kỷ

Go down 
Tác giảThông điệp
kimau




Tổng số bài gửi : 25
Join date : 28/02/2010

Đào Duy Từ gặp người tri kỷ Empty
Bài gửiTiêu đề: Đào Duy Từ gặp người tri kỷ   Đào Duy Từ gặp người tri kỷ EmptyFri Jun 10, 2011 3:57 pm

Đào Duy Từ gặp người tri kỷ



Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép rằng:
"Ất sửu, năm thứ 12 (tức năm 1625-ND). Mùa đông, Đào Duy từ đén theo (chúa Nguyễn). Duy từ người xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, xứ Thanh Hoa (Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa-ND), laug thông kinh sử, lạigiỏi cả thiên văn và thuất số. Năm ấy, Thanh Hoa có kỳ thi hương, quan Hiến ti cho Duy Từ là con phường chèo nên tước bỏ tên, không cho vào thi. Duy Từ bực tức trở về, nhân nghe tiếng chúa (Nguyễn) yêu dân và quý học trò, các bậc hào kiệt đều quy phục, nên quyết chí vào Nam một mình để theo.
(Đến nơi, Đào Duy Từ) ở huyện Vũ Xương đến hơn một tháng nhưng không ai biết đến tên cả. Lúc ấy có tin quan Khám lí huyện Hoài Nhân lad trần Đức Hòa, giàu mưu lược, được Chúa tin dùng, (ông ) bèn vào Hoài Nhân, (lúc đầu) giả thác làm người ở chăn trâu cho một nhà giàu ở xã Tùng Châu. Nhà giàu này thấy ông là người biết rộng, nghe nhiều, bèn nói với (Trần )Đức Hoà. Đức Hòa đến nói chuyện với ông, thấy ông không có điều gì là không thông suốt, lấy làm kính trọng, bèn gả con gái cho. Duy Từ từng ngâm bài Ngọa Long Cương để tự ví mình (với Khổng Minh Gia Cát Lượng). Đức Hòa thấy thế, nói:
- Đào Duy Từ là Ngọa Long( tức Khổng Minh-ND) đời nay chăng?"
Năm 1627, quân của Trịnh tráng chủ động tấn công quân của chúa Nguyễn, nhưng trải mấy tháng trời không thể thu được thắng lợi, họ liền rút lui. Được tin này, trần Đức Hòa từ quê nhà là Hoài Nhân ra tận phủ Chúa để chúc mừng. Cũng sáh trên chép tiếp:
" Chúa hỏi cuộc sống của dân xứ Quảng Nam sướng khổ thế nào, Hòa liền thưa:
- Nhờ chúa thượng rộng ban ơn huệ, lại giữ hiệu lệnh nghiêm minh nên trăm họ ai ai cũng được an cư lạc nghiệp.
Nói rồi, Đức Hòa ung dung lấy bài Ngọa Long Cương từ trong tay áo ra dâng và thưa rằng:
- Bài thơ này do gia sư của tôi là Đào Duy Từ làm ra.
Chúa xem, thấy lạ, liền giục mời (Đào Duy Từ) đến. Mấy ngày sau, Đức Hòa cùng Đào Duy Từ đến ra mắt. Lúc ấy, Chúa mặc áo trắng, đứng ở cửa nách chờ, Duy Từ vừa chợt nhìn thấy đã đứng lại, không chịu đi nữa. Chúa liền vào mặc áo, đội mũ chỉnh tề để ra mời. Duy Từ lúc ấy mới rảo bước vào lạy. (Chúa và Duy Từ) cùng nói chuyện. Chúa vui vẻ hỏi:
- Khanh sao đến muộn thế?
Nói xong, trao ngay cho chức Nha úy Nội tán, tước Lộc Khê Hầu, sai trông coi việc quân cơ trong ngoài và dự bàn việc lớn của quốc gia.
Chúa mời (Duy Từ) vào trong cung cấm để bàn bạc. Duy Từ nhân đó bày tỏ hết những điều uẩn khúc trong lòng cho Chúa hay. Chúa khen Đức Hòa là bậc biết người, bèn trọng thưởng cho ông."
(st)
Đan Thanh

Tháng ba năm Canh Ngọ (1630), Đầo Duy Từ đã lập công lớn bằng cách hiến kế cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sự kiện này được sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép như sau:
"Trước đó, Đào Duy Từ thường khuyên Chúa đừng nạp thuế cho họ Trịnh. Chúa nói:
- Tiên vương( chỉ Nguyễn Hoàng - ND) tài trí hơn người mà cũng còn phải chịu đi lại thông hiếu. Ta nay nhỏ kém không thể sánh với Tiên vương, đất đai và binh sĩ khí giới lại không bằng một phần mười của Đông Đô (đây chỉ chúa Trịnh - ND), nếu không nạp thuế thì lấy gì để giữ đất và nối nghiệp?
Duy Từ thưa rằng:
- Thần nghe, trí tuệ chẳng bằng nắm được thời thế. Tiên vương sẵn uy vũ anh hùng, mưu kế sáng suốt,chẳh phải là không thế riêng giữ đất đai, nhưng thời ấy, thuộc tướng ở Tam ti ( tức Thừa ti, Đô ti và Hiến ti - ND) đều do họ Trịnh cắt đặt, ví như thời vua Lê Thái Tông có Mai Cầu làm Tổng binh Thuận Hóa, thời vua Lê Kính Tông có Vũ Chân làm Hiến sát Thuận Hóa...v.v, nhất cử nhất động đều bị họ chú ý kiềm chế, cho nên, Tiên vương mới chịu nhẫn nại như vậy. Nay, Chúa thượng chuyên chế cả một phương, quan thuộc đều tự quyền cắt đặt, dẫu nói một lời cũng đâu ai dám trái. Thần xin được hiến kế, theo đó thì không phải nạp thuế mà vẫn giữ được đất đai, lại còn có thể dựng nên nghiệp lớn.
Chúa hỏi:
- Đó là kế gì?
(Đào) Duy Từ thưa:
- Muốn mưu đồ bá vương, cần phải có kế vẹn toàn. Người xưa nói rằng, nếu không có một lần khó nhọc thì không thể ngơi nghỉ lâu dài, nếu không chịu phí tổn nhất thời thì không thể có yên ổn mãi . Thần xin được hiến bản vẽ, đem quân dân hai trấn đến đắp một cái lũy dài, trên nối với núi Trường Dục, dưới kéo đến bãi cát Hạc Hải , nhân theo thế đất mà đặt chỗ hiểm để giữ vùng biên cảnh, quân địch dẫu có đến cũng không làm gì được.
Chúa theo kế ấy, huy động quân dân đắp lũy Trường Dục, hơn một tháng thì xong. Chúa lại hỏi (Đào) Duy Từ về cách trả lại tờ sắc phong, Duy Từ thưa:
- Nên đúc một cái mâm đồng hai đáy, giấu sắc phong ở giữa, xong, sắm đầy đủ lễ vật, lấy tướng Thần lại và Văn khuông (chưa rõ họ) làm sứ giả đi tạ ơn. Thần xin nghĩ sẵn hơn mười câu hỏi và trả lời để trao cho sứ giả mang đi, đến nơi sẽ tùy cơ ứng biến. Hễ đem xong mâm đồng cho họ Trịnh thì mau tìm cách về. Làm như thế, họ Trịnh sẽ mắc mưu ta.
Chúa theo lời, sai Văn Khuông đi Đông Đô. Văn Khuông đến, Trịnh Tráng mời vào yết kiến và hỏi:
- Trước đây đã đòi mà Chúa phương Nam không chịu nạp lễ vật để cống nhà Minh là sao?
Văn Khuông đáp:
- Lệ cống nhà Minh không có voi và thuyền, sợ người truyền lệnh nói không thật nên không dám vâng mệnh.
Hỏi:
- Tại sao (chúa phương Nam) không cho con em đến làm con tin?
Đáp:
- Nam Bắc nghĩa như một nhà, một lòng thành tin cậy lẫn nhau thì còn dùng con tin làm gì nữa?
Hỏi:
- Hoàng đế sai mời Chúa phương Nam đi đánh Cao Bằng, cớ sao lại không chịu đến?
Đáp:
- Giặc ở Cao Bằng là giặc đã sức cùng lực kiệt, sức của quân ở Trung Đô cũng đã thừa sức đánh. Chúa tôi vâng mệnh giữ hai xứ Thuận Quảng, phía Nam thì phải chống Chiêm Thành, phía Bắc lại phải đề phòng nhà Mạc, chỉ vì sợ không thể giữ yên bề cõi nên mới không dám đi.
Hỏi:
- Đắp lũy Trường Dục là có ý chống mệnh Vua hay sao?
Đáp:
- Đã chịu mệnh giữ đất thì phải phòng bị bờ cõi cho chắc, sao lại gọi là chống mệnh vua?
Hỏi:
- tướng tá ở phương Nam thế nào?
Đáp:
- Tài kiêm văn võ như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật thì không dưới vài chục người.
Hỏi:
- Người ta nói Chúa phương Nam là bậc anh hung hào kiệt, sao không nghĩ đến việc đánh giặc lập công?
Đáp:
- Chúa tôi không mê tửu sắc, không thích đàn hát, chỉ muốn đem ân huệ vỗ về dân chúng, lấy uy tín để cảm phục người xa. Ở phương Đông thì Ma Cao và Lạc Già(tức Ma-lác-ca - ND) là thuộc quốc của Tây Dương, ở phương Tây thì Vạn Tường và Ai Lao... không đâu là không thần phục. Nếu như thực có bọn Vương Mãng, Tào Tháo... tiếm lạm danh nghĩa và giết hại sinh dân thì (Chúa tôi) nhất định vì nghĩa mà xuất chinh, xây nên cơ nghiệp, không có gì sánh bằng.
Trịnh Tráng nghe vậy thì lặng yên, lát sau, quay lại bảo triều thần rằng:
- Sứ giả phương Nam ứng đối lưu loát như nước chảy,người phương Bắc ta không thể sánh kịp được.
Nói rồi, tiếp đãi (Văn Khuông )rất hậu.
Văn Khuông bưng mâm đồng chứa đầy vàng bạc dâng lên. Tráng nhận lấy. Ngay hôm đó, Văn Khuông lẻn ra khỏi cửa đô thành, theo đường biển mà trở về. Người họ Trịnh thấy cái mân đồng hai đáy thì lấy làm lạ, bèn tách ra xem thì thấy ở trong có tờ sắc phong và một tấm thiệp viết:
Mâu phi vô dịch, (1)
Mịch phi kiến tích,
Ái lạc tâm trường,
Lực lai dương địch.
Bầy tôi dâng lên, Tráng hỏi nhưng không ai hiểu được. Thiếu úy là Phùng Khắc Khoan nói rằng:
- Đó chẳng qua là ẩn ngữ của mấy chữ Dư bất thụ sắc (nghĩa là ta không nhận sắc - ND).
Tráng giận lắm, sai người bắt Văn Khuông nhưng không kịp. Tráng muốn lập tức đem quân vào đánh phương Nam, nhưng lúc bấy giờ ở Cao Bằng và Hải Dương đều có tin cáo cấp nên thôi.
Khi Văn Khuông về, Chúa( Nguyễn Phúc Nguyên) cả mừng, nói:
- Duy Từ quả như Tử Phòng, Khổng Minh ngày nay vậy. (2)
Nói rồi, trọng thưởng (cho Đào Duy Từ|) và thăng Văn Khuông lên chức Cai hợp."

Chú thích (1):
- Câu 1: Mâu nhi vô dịch: chữ mâu mà không có dấu phẩy (ở bên nách) là chữ dư, nghĩa là ta.
- Câu 2: Mịch phi kiến tích: chữ mịch mà không có chữ kiến (ở phía dưới) thì thành ra chữ bất, nghĩa là không.
- Câu 3: Ái lạc tâm trường: chữ ái mà để rơi mất chữ tâm (ở giữa) thì thành ra chữ thụ nghĩa là chịu hay nhận.
- Câu 4: Lực lai tương địch: chữ lực nếu đem ghép với chữ lai thì thành ra chữ sắc nghĩa là sắc phong, tờ sắc,...v.v.
Tóm lại , đây là câu chơi chữ, ghép nghĩa của từng câu sau khi đã được chú thích, sẽ được câu hoàn toàn mới là ta không nhận sắc.

Chú thích (2):
- Tử Phòng tức Trương Lương, một bề tôi trung thành, có nhiều mưu hay chước lạ của Hán Cao Tổ.
- Khổng Minh tức Chư Cát Lượng (cũng đọc là Gia Cát Lượng), quân sư của Lưu Bị (nước Thục thời Tam Quốc).
(st)

Danh thần thời chúa Nguyễn lập nghiệp mở mang bờ cõi về phía Nam, quê làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

Ông thông kinh sử, tinh thâm lí số và binh thư đồ trận. Nhưng vì thân phụ ông là Đào Tá Hán xuất thân là quản giáp trong nghề ca hát mà luật lệ thì nghiêm cấm không cho con nhà xướng ca ra thi cử, nên ông không tiến thân được. Bất đắc chí ông bỏ Đông Kinh (Hà Nội) lần vào miền Nam, định theo phò chúa Nguyễn.

Trong lúc bơ vơ nơi phủ Hoài Nhơn (nay là phủ Bồng Sơn) tỉnh Bình Định, ông tạm khuất thân ở ẩn, chăn trâu cho nhà giàu Chúc Trịnh Long ở thôn Tòng Châu.

Tăm tiếng ông dần dần được sĩ phu biết đến, Khán lí Trần Đức Hòa ở Qui nhơn mến tài, gả con gái cho ông và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.

Được chúa Sãi trọng dụng phong là Nội tán, ông tận tụy giúp chúa Nguyễn về quân sự, chính trị và văn hóa, đương đầu với chúa Trịnh đến thắng lợi.

Năm Canh Ngọ 1630, ông xướng xuất việc đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình.

Qua năm sau (Tân vị 1631), ông lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa bể Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình), cao một trượng, dài hơn 200 trượng (tục gọi là lũy Thầy. Đến đời Thiệu Trị mang tên là "Định Bắc trường thành")

Năm Giáp Tuất 1634, ngày 17-10 ông mất thọ 62 tuổi, được phong tặng hàm Tán trị dực vận công thần, Kim tử vinh lộc đại phu, Đại lí tự khanh, tước Lộc Khê Hầu. Đến triều Minh Mạng, truy phong tước Hoằng Quốc Công.

Đào Duy Từ còn để lại một bộ binh thư: Hổ trướng khu cơ và hai khúc ngâm: Ngọa Long cương văn, Tư Dung văn.

Người sau khen ngợi ông:

Kim Thành thiết lũy sơn hà tráng
Nghĩa sĩ trung thần sự nghiệp lưu.

Dịch:

Thành đồng lũy sắt non sông vững
Tớ nghĩa tôi trung sự nghiệp còn.

Và:

Bốt tàm danh sĩ hi Gia Cát

Dịch:

Lộc Khê sánh được tài Gia Cát

Tùng Thiện Vương ca ngợi:

Nhất tự hải sơn Sư lũy tráng,
Lộc Khê di liệt đáo, kim trường.

Dịch

Từ có lũy Thầy non bể vững
Lộc Khê công nghiệp để lâu dài.

Khúc ngâm Ngọa long cương dài 136 câu lục bát, từ lâu nay đã được phổ biến rộng trong lịch sử văn học.

Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất của nước ta vào thời cận đại


Đình Lạc Giao ở thành phố Buôn Ma Thuột hình thành năm 1928, là đình làng đầu tiên của những người Việt (Kinh) từ đồng bằng lên đây lập nghiệp. Là nơi thờ Thần Hoàng (còn gọi là Thành Hoàng), là người có công lập làng. Đình cũng là nơi diễn ra các sinh hoạt tập tục có tính cộng đồng, cũng là nơi tôn thờ các anh hùng đã có công lớn trong việc bảo vệ, xây dựng làng.

Năm 1932, Vua Bảo Đại đã ban sắc tứ phong cho Đào Duy Từ là Thần Hoàng của đình Lạc Giao. Nhân vật được sắc phong Thần Hoàng là một danh nhân văn hoá, một tài năng lớn trong nhiều lĩnh vực: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá … đặc biệt ông là người có công mở mang đất nước, xây dựng nên nhiều vùng đất mới.:good:

Đào Duy Từ (1572-1639): giúp chúa Nguyễn mở cơ nghiệp.

Chính điện

“Dưới thời Lê Trung Hưng (1532 - 1788) Đào Duy Từ là con một kép hát ở Thanh Hoá, không được dự thi, phẫn chí ông bỏ Đàng Ngoài vào Đàng Trong sống với Trần Đức Hoà (Quy Nhơn) lúc nhàn rỗi, ông lấy phác làm vui, nhân đó mà Châu Ta (tức Bình Định) được di phong.

Vũ khúc Tam tinh chúc thọ: Có nghĩa là ba sao chúc sống lâu. Đó là ba sao Phúc, Lộc, Thọ. Vũ khúc này được dùng trong dịp lễ vạn Thọ, múa chúc thọ nhà vua. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy Từ sửa lại để múa vào các ngày lễ Vạn Thọ, Thánh Thọ, Tiên Thọ, Thiên Xuân, ngụ ý chúc nhà vua phúc - lộc - thọ kiêm toàn.

Vũ khúc Múa quạt: (Vũ phiến), cũng do Đào Duy Từ đặt ra, múa vào các buổi yến tiệc, tân hôn dành cho Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, phi tần, công chúa thưởng lãm

Vũ khúc Tứ linh: Là bốn loài thú linh thiêng: Rồng (Long), Kỳ lân (Long hay Ly), rùa (Quy) và chim Phượng (Phụng). Vũ khúc này có từ thời cổ được Đào Duy Từ chỉnh biên lại để múa vào những ngày Vạn thọ, Thánh thọ, Tiên thọ, Thiên xuân và cúng Mụ.

Vũ khúc Nữ tướng xuất quân: Múa trong những ngày lễ chiến thắng, Hưng quốc Khánh niệm, những buổi dạ yến và tiếp sứ thần nước ngoài. Vũ khúc này do Đào Duy Từ đặt ra để ghi nhớ công đức Hai Bà Trưng có công đánh giặc giữ nước.

Vũ khúc Tam quốc - Tây du: Cũng do Đào Duy Từ đặt ra để diễn lại sự tích những vị anh hùng chiến đấu vì dân vì nước. Còn riêng điệu múa Tây Du nhằm làm siêu thoát âm hồn thập loại chúng sinh. Vũ khúc Tam Quốc - Tây Du múa vào các ngày lễ Vạn thọ, Khánh thọ và Tiên thọ.

Vũ khúc Đấu chiến thắng Phật: Múa vào các ngày lễ Vạn thọ Khánh thọ, Tiên thọ và cúng Mụ. Đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Đào Duy Từ đem kinh Phật đặt ra vũ khúc này chủ yếu để trừ yêu ma quỉ chướng:confused:. Vì điệu múa có hai vị thần là Tề Thiên Đại Thánh và Hộ Pháp nên cũng gọi là múa song quang.


Từ khi có Đào Duy Từ, chúa Nguyễn Phúc Nguyên như được thêm nguồn sinh lực lớn, nhưng, tuổi của Chúa và của Đào Duy Từ kể cũng đã cao, nếu có mệnh hệ nào thì cơ nghiệp họ Nguyễn khó bề giữ được, bởi vậy, Nguyễn Phúc Nguyên vẫn chưa thực sự an lòng. May sao, đúng lúc đó, một tài năng trẻ tuổi mà xuất chúng đã xuất hiện. Người đó là Nguyễn Hữu Tiến. Sách "Đại Nam thực lục" chép rằng:

"Chúa cùng với Đào Duy Từ ngày đêm mưu tính việc chống lại họ Trịnh. Duy Từ mong có người hiền tài để tiến dẫn cho Chúa. Một hôm, Duy Từ nằm mộng thấy một con hổ đen từ phía Nam tiến vào, ông liền xua quân vây bắt. Bỗng, con hổ mọc cánh, nhảy lên không trung mà vừa bay vừa múa. Tỉnh dậy, Duy Từ ăn mặc chỉnh tề để ngồi chờ. Chợt có một người quê ở xã Vân Trai, huyện Ngọc Sơn xứ Thanh Hoá là Nguyễn Hữu Tiến (biểu danh là Thuận Nghĩa), từ phía ngoài vào, mình mặc áo đen, tay cầm quạt lông, đến bái yết dưới thềm. Duy Từ thấy dáng vẻ khác thường, hỏi thì xưng tên họ, hỏi tuổi thì nói sinh năm Nhâm Dần, lòng lấy làm vui mừng vì cho đó là hợp với mộng, bèn giữ lại để đàm đạo.

Nguyễn Hữu Tiến là người thông minh, khoẻ mạnh và có mưu lược. Duy Từ rất yêu quý, đem con gái gả cho rồi tiến cử lên chúa. Chúa cho Nguyễn Hữu Tiến làm đội trưởng, coi thuyền Địch Cần trong quân Nội Thuỷ. Hữu Tiến thường đêm đêm diễn tập quân lính. Một hôm, ở trong quân có kẻ làm trái luật, ông bèn chém viên Kì trưởng (người lo giữ hiệu cờ trong quân đội xưa) để giữ nghiêm mệnh lệnh, khiến cho toàn quân đều sợ. Duy Từ biết chuyện, lấy làm kinh ngạc, vội vào hầu Chúa. Lúc ấy, Chúa đang đọc "Chiến quốc sách" (một tác phẩm của Trung Quốc), nên nhân có Đào Duy Từ vào, hai người cùng bàn về binh pháp cổ kim. Duy Từ ung dung nói chuyện Tôn Võ Tử đang giảng giải về các phép chiến sự ở cung vua Ngô mà chém vợ yêu của vua. Chúa nghe, khen vua Ngô là người quyết đoán, Tôn Võ Tử là người nghiêm, có thế mới dựng nên nghiệp. Duy Từ nhân đấy mới đem chuyện Hữu Tiến chém người Kì trưởng để xin tội, Chúa nói:

- Ã Binh không đều thì giết, còn tội gì?

Từ đó, Chúa thăng dần Nguyễn Hữu Tiến lên đến chức Cai đội, sĩ tốt ai ai cũng phục".

Người đã có lòng thành, lại luôn canh cánh nỗi lo tìm cho bằng được người hiền tài, thì sớm muộn thế nào người hiền tài cũng đến. Đào Duy Từ lo cả khi ăn khi ngủ nên mới có giấc mộng lạ. Nhưng Đào Duy Từ phải đàm đạo mới rõ Nguyễn Hữu Tiến là người như thế nào chứ không hề chỉ dựa vào giấc mộng.

Tiến cử người tài là chuyện giản đơn nhưng lại cực kỳ khó, bởi vì trong muôn người, may ra mới có một vài người tài và trong muôn người tài, may ra mới có một vài người có khả năng dang tay đón nhận những người tài khác. Cổ kim đã cho thấy, chỉ những ai thực sự giàu tài năng xuất chúng mới có thể biết trọng và biết dùng người tài.

Một lần nữa, Đào Duy Từ đã tỏ rõ sự khôn khéo trong cách lựa lời kính tâu với Chúa. Lời cần nói, nếu nói đúng lúc, đúng nơi và đúng người cần nghe, bao giờ cũng là lời có hiệu quả cao nhất. Bảo rằng đó là lời Đào Duy Từ bảo vệ cho con rể cũng được, mà bảo rằng đó là lời Đào Duy Từ bảo vệ cho một tài năng mới cũng được.

Nguyễn Hữu Tiến được thăng chức, trước vì Nguyễn Hữu Tiến có tài, sau nữa là vì chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng muốn đề cao kỷ luật quân đội.


Đào Duy Từ Giai Thoại

Đào Duy Từ quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Từ nhỏ ông đã rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách. Nhiều sách báo từ trước tới nay đã viết về ông, ca ngợi con người đã có ý chí lớn, vượt bao hoàn cảnh khó khăn, tự rèn luyện học tập để trở thành một tài năng, lập thân, lập nghiệp và cống hiến cho đời.

1 . Kẻ chăn trâu kỳ dị

Nhà phú hộ Lê Phú ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuê được một đứa ở chăn trâu tên là Đào Duy Từ. Tuy đã đứng tuổi, nhưng Duy Từ tỏ ra rất cần mẫn, siêng năng. Ngày ngày cứ sáng, sớm lùa trâu đi ăn, mãi chập tối mới đánh trâu về, trời nắng cũng như trời mưa, khiến gia chủ rất vừa lòng, chưa hề có tiếng chê trách.

Một hôm, phú hộ họ Lê mời các Nho sĩ hay chữ khắp vùng đến nhà dự hội bình văn. Chập tối, sau khi tiệc tùng xong, mọi người còn trà thuốc, bàn cãi chữ nghĩa văn chương, thì vừa lúc Đào Duy Từ chăn trâu về. Thấy đám đông khách khứa trò chuyện rôm rả, Duy Từ bèn lại gần, đứng ghếch chân lên bậc thềm nhìn, tay vẫn cầm chiếc roi trâu, vai đeo nón lá, lưng quấn khố vải... Chủ nhà ngồi phía trong nhìn thấy cho là vô lễ, giận dữ quát:

- Kẻ chăn trâu kia! Hạng tiểu nhân biết gì mà dám đứng nhìn các quan khách đây là những bậc danh Nho ?

Duy Từ nghe mắng song không tỏ ra sợ hãi, cười ha hả, rồi nói một cách thản nhiên:

- Nho cũng có hạng ''nho quân tử'', hạng ''nho tiểu nhân''. Chăn trâu cũng có kẻ ''chăn trâu anh hùng'', kẻ''chăn trâu tôi tớ'', cao thấp không giống nhau, hiền ngu không là một ! Còn kẻ tiểu nhân tôi chỉ đứng nhìn, có xâm phạm gì đến cái phú quý, sang trọng của các vị, mà chủ nhân lại mắng đuổi ?

Mấy người khách nghe Duy Từ là đứa chăn trâu, mà nói lí như vậy, liền vặn hỏi:

- Vậy nhà người bảo ai là "nho quân tử", ai là "nho tiểu nhân" hả?

Đào duy Từ chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn một mạch:

- "Nho quân tử'' thì trên thông thiên văn, dưới thấu địa lí, giữa hiểu việc đời, trong nhà giữ được đạo cha con, tình nghĩa vợ chồng, anh em, bè bạn, ngoài xã hội thì biết lo việc nước, vỗ yên dân, giúp đời, phò nguy cứu hiểm, để lại sự nghiệp muôn đời. Còn ''nho tiểu nhân'' thì chỉ là bọn học vẹt, cầu danh cầu lộc, khoe ít chữ nghĩa, coi thường hào kiệt, may được giữ một chức quan nhất thời, thì chỉ tìm trăm phương ngàn kế để mưu đồ lợi riêng làm sâu mọt hại dân đục nước, thật là đáng sợ !

Đám khách nghe Duy Từ nói thế, đều giật mình kinh ngạc, không ngờ một đứa chăn trâu mà lí lẽ cứng cỏi làm vậy, bèn tò mò hỏi thêm:

- Còn ''kẻ chăn trâu anh hùng'', kẻ ''chăn trâu tôi tớ'' thì nghĩa làm sao, nhà ngươi thử nói nghe luôn thể ?

Duy Từ mỉm cười, ung dung trả lời:

- ''Chăn trâu anh hùng'' thì như Nịnh Thích phục hưng nước Tề, Điền Đan thu lại thành trì cho nước Yên, Hứa Do cho trâu uống nước ở khe mà biết được hưng vong trị loạn, Bạch Lý Hề chăn dê mà hiểu thấu thời vận thịnh suy. Đó là những kẻ ''chăn trâu anh hùng''. Còn những bọn chỉ biết cam phận tôi tớ, chơi bời lêu lổng, khi vui thì reo hô hoán, khi giận thì chửi rủa, đánh đấm, chẳng kể gì thân sơ, làm cha ông phải xấu lây, xóm làng chịu điều oan. Đấy là hạng ''chăn trâu tiểu nhân'' cả !

Mọi người nghe Duy Từ đối đáp trôi chảy, sách vở tinh thông, nghĩa lí sâu sắc, càng thêm kinh ngạc, nhìn nhau, rồi đứng cả dậy, bước ra ngoài thềm mời Duy Từ cùng vào nhà ngồi. Nhưng Duy Từ vẫn tỏ ra khiêm tốn chối từ. Cả bọn bèn dắt tay Duy Từ lên nhà, ép ngồi vào chiếu trên.

Gã phú hộ Lê Phú rất đỗi ngạc nhiên, thấy kẻ đầy tớ chăn trâu nhà mình mà nói toàn chữ nghĩa nên còn ngờ, bèn giục mấy nhà Nho văn hỏi thêm, thử sức Duy Từ về kiến thức, sách vở cổ kim xem hư thực ra sao.

Các vị Nho học nhất vùng hỏi đến đâu, Đào Duy Từ đều đối đáp trôi chảy đến đó và tỏ ra không có sách nào chưa đọc đến, không có chữ nào không thấu hiểu, khiến cho cả bọn phải thất kinh, bái phục sát đất !

Chủ nhà cũng không kém phần sửng sốt, mới vỗ vai Duy Từ, đổi giận làm lành, mà rằng:

- Tài giỏi như thế, sao bấy lâu cứ giấu mặt không cho lão già này biết, để đến nỗi phải chăn trâu và chịu đối xử bạc bẽo theo bọn tôi tớ ? Quả lão phu có mắt cũng như không. Có tội lắm ! Có tội lắm!

Từ đó chủ nhà may sắm quần áo mới xem Duy Từ là khách quý, mời ngồi giảng học, đối đãi hết sức trọng vọng.


Đổi họ để đi thi

Đào Duy Từ vốn người Đàng Ngoài , quê gốc ở làng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Bố là Đào Tá Hán, trước làm lính cấm vệ trong triều, thời Lê - Trịnh. Một hôm, nhân lúc nổi hứng, Tá Hán đã sáng tác bài thơ ca ngợi chúa Trịnh như sau:

Trang quốc sử ai bằng Trịnh Kiểm
Tỏ thần uy đánh chiếm hai châu (chỉ Nghệ An và Thanh Hóa)
Thẳng đường rong ruổi vó câu
Phù Lê, diệt Mạc trước sau một lời...

Tá Hán liền bị quy là phạm thượng, trong thơ dám nói cả tên húy của chúa là Trịnh Kiểm. Ông bị tội phạt đánh đòn 20 roi và bị đuổi về nhà làm dân thường.

Nhờ có tài đàn hát nên Tá Hán bèn đi theo một gánh hát để kiếm sống và ít lâu sau đã trở thành kép hát tài giỏi, nổi tiếng khắp vùng.

Có lần, gánh hát đến diễn ở làng Ngọc Lâm trong huyện. Đào Tá Hán trọ trong nhà vị tiên chỉ của làng này là Vũ Đàm. Ông tiên chỉ họ Vũ có cô cháu gái là Vũ Thị Kim Chi đem lòng yếu Tá Hán. Lúc đầu Tá Hán sợ phận mình nghèo khổ, khó kết thành vợ chồng. Nhưng sau khi nghe người nhà vị tiên chỉ thuyết phục rằng cô Chi có sẵn vốn liếng làm ăn, không phải lo nghèo chẳng nuôi nổi vợ, nên Tá Hán nghe theo.

Họ làm lễ thành hôn rồi mua đất, dựng nhà ở Hoa Trai, sau hơn một năm thì sinh ra Đào Duy Từ. Khi Duy Từ lên năm, chẳng may bố bị bệnh mất. Người mẹ chịu ở góa, một mình ngược xuôi tần tảo quyết nuôi cho con ăn học. Duy Từ tỏ ra rất sáng dạ, lại ham mê đèn sách, báo trước khả năng có thể thành đạt trên bước đường cử nghiệp.

Thế nhưng số phận thật là oái oăm! Theo luật lệ của triều đình bấy giờ, thì con cái những người làm nghề ca xướng đều không được quyền thi cử. Bà Kim Chi tiếc cho tài học của con, bèn thu gom vay mượn tiền bạc đến đút lót cho viên xã trưởng làng Hoa Trai là Lưu Minh Phương, để nhờ đổi họ Đào của con theo cha thành họ Vũ của mẹ, mong sao Duy Từ được dự kì thị Hương sắp tới Viên xã trưởng thấy người vợ góa của Đào Tá Hán còn nhan sắc, nên nhận lời và ra điều kiện nếu xong việc thì phải lấy y.

Theo một vài tài liệu cho biết Đào Duy Từ đã dự khoa thi Hương năm 1593 đời vua Lê Thế Tông (l 567-1584) và đã đỗ á nguyên (thứ hai). Ông được mẹ khuyến khích dự tiếp kì thi Hội. Lúc này Duy Từ mới 2 l tuổi.

Thấy việc đổi họ cho Duy Từ đi thi đã trót lọt, xã trưởng họ Lưu bèn đòi bà Kim Chi thực hiện giao ước tái giá về làm vợ mình. Bà Chi cứ lần chần, chối khéo, với lí do con mới thi đỗ, mẹ làm thế sẽ khó coi...

Viên xã trưởng tức giận, đem chuyện trình bày với tri huyện Ngọc Sơn, vốn là chỗ thân quen, để nhờ áp lực quan trên bắt bà mẹ Duy Từ phải thực hiện giao ước.

Viên tri huyện biết chuyện liền lập tức mật báo lên trên. Lúc này Duy Từ đang dự kì thi Hội. Bài Từ làm rất hay, chỉ có một điểm lập luận chưa vừa ý chúa, nên quan chủ khảo là Thái phó Nguyễn Hữu Liêu đang còn cân nhắc.

Giữa lúc đó thì có tin "sét đánh'' ập đến lệnh triều đình truyền xuống đòi xóa ngay tên Vũ Duy Từ, hủy bỏ bài thi, lột hết mũ áo được ban, bắt ngay để tra xét. Đồng thời, gửi trát về cho tri huyện Ngọc Sơn trừng trị những kẻ liên đới.

Luật lệ thời đó quy định xử phạt rất nặng những ai dám phạm vào quy chế thi cử. Sắc chỉ vua Lê về các kì thi Hương đã ghi: ''Nếu người nào mà bị nghi gian thì bắt giữ đích thân đem việc tâu lên để trên xét". Vì thế, ngay sau đó, Đào Duy Từ đã bị giam giữ, xét hỏi.

Ở quê bà Vũ Thị Kim Chi cũng không tránh khỏi sự truy xét. Bà vừa lo cho tính mạng của con, vừa oán giận sự khắc nghiệt, bất công của triều đình, nên đã phẫn uất đi đến tự tử.

Duy Từ biết tin mẹ mất, nhưng không được về chịu tang, thương cảm quá thành bệnh ngày càng nguy kịch.

Chính trong thời gian Đào Duy Từ gặp cảnh ngộ éo le này, thì chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613), cát cứ ở Đàng Trong, đang làm chuyến du hành ra Bắc với mục đích chúc mừng chúa Trịnh diệt được họ Mạc, luôn thể dò la tình hình của xứ Đàng Ngoài và thăm viếng phần mộ của cha ông xây cất ở vùng Tống Sơn (nay là huyện Hà Trung), Thanh Hóa.

Nguyễn Hoàng có đến thăm Thái phó Nguyễn Hữu Liêu nên tình cờ nghe được chuyện ông này kể về tài năng và số phận hẩm hiu của người học trò nghèo Đào Duy Từ. Chúa,Nguyễn đang nuôi ý đồ xây dựng cơ nghiệp riêng ở Đàng Trong nên muốn ''chiêu hiền đãi sĩ" lôi kéo người tài xứ Bắc về mình. Vì thế, khi biết chuyện Duy Từ, chúa đem lòng ái mộ, cảm mến, ngầm giúp Từ tiền bạc để sinh sống, chạy chữa thuốc men.

Giai thoại dân gian kể rằng, trước lúc trở về Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã đến thăm Đào Duy Từ. Chúa chợt thấy trên vách buồng Duy Từ đang ở có treo bức tranh cầu hiền vẽ ba anh em Lưu Bị thời Tam Quốc bên Tàu lặn lội tìm đến đất Long Trung để vời đón gia Cát Lượng là một bậc hiền tài.

Nguyễn Hoàng bèn chỉ lên bức tranh, tức cảnh đọc mấy câu thơ để tỏ lòng cầu hiền của chúa và cũng để dò xét tâm ý Đào Duy Từ:

Vó ngựa sườn non đá chập chùng
Cầu hiền lặn lội biết bao công

Duy Từ bèn đọc tiếp:

Đem câu phò Hán ra dò ý
Lấy nghĩa tôn Lưu để ướm lòng. ..

Nguyễn Hoàng nối thêm:

Lãnh thổ đoạn chia ba xứ sở
Biên thùy vạch sẵn một dòng sông

Và Duy Từ kết

Ví như chẳng có lời Nguyên Trực
Thì biết đâu mà đón Ngọa Long

Thế nhưng, kể từ khi có cuộc hội ngộ này, phải đến chục năm sau, Đào Duy Từ mới trốn được vào Nam. Lúc đó, Nguyễn Hoàng đã mất và ông phải đi ở chăn trâu cho nhà hào phú ở đất Tùng Châu, để chờ thời đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội.


Bước ngoặt cuộc đời

S au buổi đối đáp với các nhà nho ở Tùng Châu, tiếng tăm Đào Duy Từ - một kẻ chăn trâu kì lạ, tài giỏi hơn người, lan truyền khắp nơi. Bấy giờ có vị quận công, anh em kết nghĩa với chúa Nguyễn, rất có thế lực, là Khám lí Trần Đức Hòa hay tin. Ông này cho đón Đào Duy Từ đến nhà chơi. Qua các buổi chuyện trò, đàm đạo văn chương, Khám lí họ Trần đã nhận thấy Duy Từ có học vấn uyên bác, lại tỏ ra chí lớn hơn người, bèn đem lòng yêu quý và gả người con gái là Trần Thị Chính cho Từ làm vợ.

Khi đã có chốn nương thân vững chắc Đào Duy Từ mới dần dà lộ rõ chí hướng phò vua giúp nước đã nung nấu suốt mấy chục năm cho bố vợ biết. Ông đưa tác phẩm "Ngọa Long cương vãn" của mình cho Trần Đức Hoà xem. Nội dung bài văn chính là nỗi lòng của Duy Từ, tự ví mình như Gia Cát Lượng (là một nhà quân sự, chính trị nổi tiếng bên Trung Quốc, vì chưa được thi thố tài năng, nên còn ẩn náu ở chốn Ngọa Long). Nỗi lòng đó của Duy Từ được thể hiện rõ ở đoạn kết:

Chốn này thiên hạ đã dùng
Ắt là cũng có Ngọa Long ra đời
Chúa hay dùng đặng tôi tài
Mừng xem bốn bể dưới trời đều yên

Khám lí Trần Đức Hòa xem đi xem lại bài văn ''Ngọa Long cương'' của con rể, thấy văn từ khoáng đạt, điển tích tinh thông, ý chí mạnh mẽ, hoài bão lớn lao, đã tấm tắc khen, rồi tìm cách dâng lên chúa Nguyễn xem để tiến cử Duy Từ với chúa.

Bấy giờ chúa Nguyễn là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (16l3- l635) đang có ý định kén chọn nhân tài, để dựng nghiệp lớn, nên khi xem xong bài văn của Đào Duy Từ đã rất tâm đắc, bèn lệnh cho Khám lí Trần Đức Hòa dẫn ngay người con rể vào gặp chúa.

Gia đình nhà vợ vội may sắm quần áo, khăn mũ hợp nghi thức để Duy Từ mặc vào chầu cho thật chỉnh tề. Nhưng Duy Từ nhất mực từ chối, viện lẽ rằng mình không dám dùng, vì chưa có chức tước!

Trước buổi tiếp, Sãi Vương muốn thử tư cách Đào Duy Từ, nên chúa mặc y phục xuềnh xoàng, cầm gậy đứng trước cửa, thái độ lơ đãng, như chờ một kẻ hầu nào đấy.

Từ xa, Đào Duy Từ đã nhìn thấy vẻ thờ ơ của chúa, bèn giả tảng hỏi bố vợ:

- Người kia là ai vậy, thưa cha?

Trần Đức Hòa sợ hãi, trả lời:

- Ấy chết! Sao con dám hỏi vậy? Vương thượng đấy, Người đứng chờ, con mau mau đến bái lạy!

Duy Từ nghe bố vợ nói, chỉ cười nhạt rồi quay lại chực không đi nữa. Khám lí Trần đi trước, ngoảnh lại thấy con rể bỏ về, sợ khiếp đảm, liền níu lại quở trách:

- Con làm thế này thì tội phạm thượng sẽ trút lên đầu cha cả thôi!

Duy Từ đáp:

- Thưa cha, vì con thấy chúa đang trong tư thế đi dạo với các cung tần mĩ nữ, chứ không có nghi lễ gì gọi là tiếp đón khách hiền. Nếu con lạy chào tất phạm vào tội khinh vua.

Nghe con rể nói vậy, ông bố vợ lại càng thất kinh, cáu kỉnh cầm tay Duy Từ bắt trở lại ngay, để lạy chào chúa, không được để chúa phải chờ. Nhưng Duy Từ vẫn dùng dằng không chịu nghe lời.

Từ xa, Sãi Vương đã để ý quan sát thấy tất cả, biết Đào Duy Từ là kẻ tài giỏi thực, tính khí khái, chứ không giống những bọn tầm thường, chỉ cốt quỵ lụy, được ra mắt chúa, hòng tiến thân để kiếm chút bổng lộc, chức tước mà thôi. Chúa bèn quay vào nội phủ, thay đổi áo quần và bảo thái giám đem áo mũ ban cho Duy Từ, rồi vời vào sảnh đường tiếp kiến.

Kể từ buổi đó, Đào Duy Từ được chúa Sãi Vương tin yêu, trọng vọng, tôn làm quân sư, luôn ở cạnh chúa để bàn bạc việc quốc gia trọng sự. Ông được phong chức Tán trị, tước Lộc Khê hầu, nên người đời vẫn quen gọi ông là Lộc Khê.
Tài năng được thi thố

Năm 1627, chúa Trịnh Đàng Ngoài muốn bắt họ Nguyễn ở Đàng Trong thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương và đòi lễ vật cống nạp. Chúa Sãi không chịu, nhưng bề ngoài chưa biết xử trí ra sao, bèn hỏi ý kiến Lộc Khê Đào Duy Từ. Theo một số tư liệu, thì chính Duy Từ là người khuyên chúa bước đầu cứ nhận sắc phong, rồi sau sẽ tìm kế đối phó.

Ba năm sau, thấy thời cơ thuận lợi, bấy giờ Lộc Khê mới bàn với Sãi Vương, sai thợ làm một chiếc mâm đồng có hai đáy, bỏ sắc vua Lê phong kèm với một tờ giấy có 4 câu chữ Hán vào giữa, rồi hàn kín lại. Trên mâm cho bày nhiều lễ vật hậu hĩnh, rồi cử sứ giả mang ra Thăng Long, để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.

Triều đình Đàng Ngoài nhận được mâm lễ vật tỏ ý ngờ vực, bèn cho khám phá bí mật ở phía trong và cuối cùng họ đã phát hiện chiếc mâm có hai đáy. Khi đem đục ra thì thấy có sắc vua phong dạo trước và tờ giấy viết bốn câu chữ Hán sau:

Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch

Dịch nghĩa từng câu là: chữ ''mâu'' không có dấu phết; chữ ''mịch'' bỏ bớt chữ ''kiến''; chữ ''ái'' để mất chữ ''tâm'' và chữ ''lực'' đối cùng chữ ''lai''.

Thoạt đầu, chúa Trịnh và cả đình thần không ai hiểu bốn câu trên ngụ ý gì. Sau chúa phải cho vời viên quan thông thái nhất triều vào hỏi, thì mới vỡ lẽ rằng, trong chữ Hán, chữ ''mâu'' viết không có dấu phết thì thành chữ ''dư''. Chữ ''mịch" mà bỏ chữ ''kiến'' thì là chữ "bất''. Chữ ''ái'' nếu viết thiếu chữ ''tâm'' thì ra chữ ''thụ'' và chữ ''lực để cạnh chữ ''lai'' sẽ là chữ ''sắc''. Gộp cả bốn chữ mới lại thành câu: ''Dư bất thụ sắc'', nghĩa là ''Ta chẳng chịu phong''.

Chúa Trịnh thấy họ Nguyễn chối từ, trả lại sắc phong bằng một mẹo kế tài tình, thì vừa tức giận, vừa phục tài, bèn cho dò la và biết được đều do Lộc Khê Đào Duy Từ bày đặt ra cả. Chúa tính kế làm sao để lôi kéo Lộc Khê bỏ chúa Nguyễn Đàng Trong về với triều đình Lê - Trịnh Đàng Ngoài.

Chúa lập mưu sai người mang nhiều vàng bạc bí mật vào biếu Đào Duy Từ, kèm một bức thư riêng để nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Đàng Ngoài, nếu trở về sẽ được triều đình trọng vọng, cho giữ chức quan to.

Đào Duy Từ đã trả lại quà tặng và viết bài thơ phúc đáp chúa Trịnh như sau:

Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?...

Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo được họ Đào, nhưng thấy bài thơ chưa có câu kết, ý còn bỏ ngỏ, nên vẫn nuôi hi vọng, bèn cho người đem lễ vật hậu hơn, cầm thư chúa vào gặp Đào Duy Từ lần nữa.

Lần này, ông mới viết nốt hai câu kết gửi ra, để trả lời dứt khoát việc mời mọc của chúa Trịnh. Hai câu đó như sau:

Có lòng xin tạ ơn lòng
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!

Từ đấy Đào Duy Từ ở lại giúp chúa Nguyễn ổn định và phát triển vùng đất miền trong, mở mang bờ cõi đất nước ta cho đến lúc qua đời. Ông đã đem tài trí của mình cống hiến cho xã hội về nhiễu lĩnh vực. Ông là một nhà quân sự tài ba, kiến trúc sư xây dựng lũy Trường Dục ở Phong Lộc và lũy Nhật Lệ ở Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình, để chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh. Lũy Nhật Lệ còn gọi là lũy Thầy (vì chúa Nguyễn và nhân dân Đàng Trong tôn kính gọi Đào Duy Từ là thầy). Lũy này được hoàn thành năm 163l, có chiều dài hơn 3000 trượng (khoảng hơn l2 km), cao l trượng 5 thước (khoảng 6 m), mặt lũy rất rộng (voi có thể đi lại được) cứ cách một quãng lại xây pháo đài để đặt súng thần công. Chiến lũy này có vị trí gần khe, dựa vào thế núi, chạy dài suốt cửa biển Nhật Lệ, trông giống hình cầu vồng, có tác dụng chặn được bước tiến của quân Trịnh trong hàng trăm cuộc giao tranh. Đương thời có câu ca:

Khôn ngoan qua cửa sông La
Dù ai có cánh chớ qua lũy Thầy

Những kết quả nghiên cứu gần đây cho biết các lũy trên còn có tác dụng chắn cát gió, giúp cho sản xuất nông nghiệp và điều hòa khí hậu trong vùng.

Đào Duy Từ còn là tác giả cuốn sách bàn về quân sự rất nổi tiếng tên là "Hổ trướng khu cơ''. Đây là tác phẩm rất hiếm hoi của người xưa viết về quân sự còn lưu lại đến nay ở nước ta. Ngoài phần trình bày về lí luận, ông còn đề cập đến một số kĩ thuật, công nghệ của chiến tranh như cách bày binh bố trận, cách chọn địa điểm đóng quân, làm cầu phao vượt sông, chế tạo các loại vũ khí (kể cả một số loại vũ khí hiện đại nhất thời bấy giờ như thủy lôi, hỏa tiễn...)

Trong lĩnh vực văn học, Đào Duy Từ còn để lại hai tác phẩm khá nổi tiếng là ''Ngọa Long cương vãn'' và ''Tư Dung vãn''. Ông cũng là người đã khởi thảo ra tuồng Sơn Hậu, sáng tác các điệu múa Song Quang, Nữ tướng xuất quân, Tam Quốc, Tây Du... và có công đầu trong việc phát triển nghệ thuật tuồng ở Đàng Trong...

Từ khi được chúa Sãi Vương tin dùng, Lộc Khê Đào Duy Từ chỉ còn được 8 năm cuối đời để đem tài năng của mình cống hiến cho sự nghiệp chung. Ông đã làm được nhiều việc có ích cho xã hội, góp phần vào công cuộc ổn định và mở mang đất nước.

Sau khi ông mất, ở Bình Định nhân dân đã lập đền thờ ông. Nhiều sách báo từ trước tới nay đã viết về ông, ca ngợi con người đã có ý chí lớn, vượt bao hoàn cảnh khó khăn, tự rèn luyện học tập để trở thành một tài năng, lập thân, lập nghiệp và cống hiến cho đời.

Đánh giá Lộc Khê Đào Duy Từ, nhà yêu nước thời cận đại , Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng ( l876-1947) đã viết:

Bể dâu thay đổi mấy triều cương
Lũy cũ xanh xanh một giải trường
Rêu đá lờ mờ kinh Hổ trướng
Gió lau leo lắt phú Long Cương
Non sông trơ đó, Thầy đâu vắng?
Con cháu còn đây, giống vẫn cường
Công đức miệng người ghi tạc mãi
Ngàn thu mấy kẻ biết trông gương!


Tuổi ngoài năm mươi với tài năng và trí tuệ siêu quần, Đào Duy Từ vẫn phải chịu trù dập của mệnh đời nghiệt ngã. Quê ở Thanh Hoá là con nhà kép hát đào ca - ngang thân phận với những kẻ nô tỳ - ông và gia đình bị sự ruồng bỏ, khinh khi của vua quan thời Lê Trịnh.

Lý lịch buộc cấm thi vĩnh viễn. Xã hội đương thời với quan niệm hẹp, bất công - "xướng ca vô loài" - đã gián tiếp thay đổi hẳn cuộc đời ông. Khi mà lịch sử chưa đủ độ lùi để nghiêm minh phán xét, bấy giờ khó ai ngờ không chỉ họ Đào mà ngay cả vận nước cũng chuyển biến theo cuộc thoát ly bất đắc dĩ của một tài năng lớn - tham mưu, chiến lược gia kiệt xuất - gần cuối cuộc đời vẫn cùng đường tuyệt lộ.

Làm thế nào để kẻ bất hạnh ấy đem trí tuệ hiến dâng tổ quốc? Khi mà ngay giữa lòng quê hương yêu dấu, ông không có chỗ dung thân làm bệ phóng. Trong lúc hạng bất tài vô đức thì nghênh ngang đầy tước lộc quyền uy. Hơn thế, còn bao kẻ hưởng đặc quyền tiến thân nhờ cha truyền con nối... Với bọn sâu dân mọt nước ấy - oái oăm thay - thì người tài năng, trí đức nào khác kẻ thâm thù, là ám ảnh sự an toàn riêng chúng. Vì thế, trù dập tri thức, đố kị nhân tài là tất yếu trong bối cảnh ngự trị thời hôn quân, bạo chúa.

Đào Duy Từ liều chết bơi ngang qua dòng sông định mệnh, nơi phân chia đôi bờ Trịnh Nguyễn. Tóc đã hoa râm, ông lưu lạc về nam làm một kẻ giang hồ. Bậc thượng trí thức thành tứ cố vô thân, người anh tài đành hành khất nơi dọc đường gió bụi. Đời sau ngậm ngùi thương cảm Đào Duy Từ như thương cảm vận nước xoay vần sao lắm nỗi điêu linh...

Phải chăng, dù bắc hay nam thì kỳ thị xuất thân rồi cứ vẫn như nhau? Lịch sử sẽ đứng ở nơi đâu? Thuận theo yêu cầu chung đất nước, mở rộng cửa đón nhân tài để ích quốc lợi dân. Hoặc lịch sử - bị khống chế bởi giai cấp cai trị - săm soi lý lịch, vùi dập bao tinh hoa nước Việt...? Qua Đào Duy Từ, hiểu sâu sắc thế nào là nỗi đau triều đại.

Ông phải tự tìm ra giải đáp. Câu hỏi không chỉ cho một thời hoặc riêng mỗi mình ông. Lịch sử sẽ trả lời. Vâng, đấy là bài học tiến tới sự tiêu vong ô nhục - không cứu vãn - của Trịnh Lê sau đó. Đồng thời, làm sáng lên vai trò đại diện sự nghiệp nam tiến của dân tộc Việt - các chúa Nguyễn - những anh hùng góp công lớn mở nước từ Hải Vân cho tới mũi Cà Mau.

Trong đó, ổn định phòng ngự mặt Trịnh Lê là quyết định vấn đề. Vị tất cuộc nam tiến đã tựu thành viên mãn nếu cuộc chiến sau lưng rơi vào thế hạ phong. Nguyễn Phúc Nguyên, vị chúa thứ hai - với chiến lược gia Đào Duy Từ phò tá - làm phá sản sức tấn công trường kỳ từ mạn bắc của triều đình Lê Trịnh.

Khi lang bạt đất Bình Định. Chăn trâu cho nhà phú hộ họ Lê, Đào Duy Từ dừng bước tìm một nơi tá túc. Mỗi ngày theo sau bầy gia súc, ông có khi nào thôi ưu tư về trận pháp hành binh..? Mỗi đêm co ro nghiêng mình trong cót lúa, bao nhiêu lần ông thao thức khắc khoải mái nhà xưa? Lịch sử luận thành bại bậc anh hùng, xưa nay chỉ chú trọng đến tài năng ít ai lý đến nỗi cô đơn của những người đặc biệt ấy.

Thế nhân thương hại nhìn kẻ mục đồng tóc đã ngả màu kia hiện ra giữa đám trẻ con còn để chỏm. Từng vạch ngang dọc chi chít vẽ lên trên các nấm mồ mới chôn, chưa cỏ mọc. Một mình đánh đáo, chơi ô quan chỗ đồng không mông quạnh ư? Ông làm gì? Vạch gì? Kỳ diệu nào trong đó?

Ai hiểu nổi "Hổ trướng khu cơ" ? Tâm huyết một đời ông ấp ủ để kính dâng lên tổ quốc. Vâng, không giấy bút, án bàn, không hề ai đoái tưởng. Một gả khật khùng vô tích sự dưới mắt thế gian chăng? Lão Tử đã chẳng từng nói "Bậc đại trí dường như kẻ ngu" đó sao. Hai chữ "dường như" tự nó đã chỉ ra bao nhận định lỗi lầm, bao đối xử đớn đau của đồng loại với vô số tài hoa. Rồi cuối cùng, cũng vỡ lẽ chữ "ngu" của Lão Tử... Huỷ diệt và chối từ chất xám dân tộc khác gì tự huỷ diệt sự trường tồn của bộ máy quyền uy, là tự chối từ động cơ đem thăng hoa về cho quê hương đất nước.

Kẻ chăn trâu ấy từng khiến chủ nhân phải quở trách khi đứng nghe các danh sĩ mãi luận bàn về sách vở, thi thư. Một cuộc vấn đáp đầy bất ngờ khiến ai nấy đều bàng hoàng, kinh dị:

- Phận tôi tớ, chăn trâu sao dám đứng nghe lời cao luận của các nho sĩ, danh gia?

- Bẩm, có chăn trâu hèn hạ, có chăn trâu anh hùng. Nhà nho, ngoài nho tiểu nhân còn bậc nho quân tử.

- Thế nào nho quân tử? Sao gọi nho tiểu nhân?

- Bẩm, nho quân tử là kẻ học rộng đức dày, tài kinh bang tế thế. Ngoài có thể khiến dân giàu nước mạnh cương thổ mở mang. Trong đủ trí tuệ tham mưu giúp minh quân an dân, giữ nước. Ví như Hưng Đạo Vương nhà Trần, Khương Thượng Tử Nha nhà Châu, Khổng Minh thời hậu Hán...

Thưa, còn tiểu nhân nho là những kẻ học từ chương làm mồi câu danh lợi. Thời thanh bình, vểnh râu tôm tự đắc ăn trước ngồi trên. Gặp vận nước nhiễu nhương thụt đầu rùa, nhu nhược than dài thở ngắn. Ví như bọn Vương Diễn đời Tấn, An Thạch thời Tống đem thơ văn mị thời, lỡm thế.

- Còn thế nào là chăn trâu anh hùng khác chăn trâu hèn hạ?

- Bẩm, chăn trâu anh hùng Đinh Bộ Lĩnh, tài dẹp loạn an dân. Như Ninh Thích giúp Hoàn Công thịnh vượng được nước Tề. Như Hứa Do đứng bên khe nước chảy, bàn hết lẽ thịnh suy ngoài cuộc thế.

Thưa, kẻ chăn trâu hèn hạ chỉ khát uống, đói ăn. Ngày ra đồng ưa hát nghêu ngao vài ba câu nhảm nhí. Đêm ngủ vô tư lự, sao hiểu nổi lý huyền vi trong thiên hạ...

Từ câu chuyện vấn đáp kia, cuộc đời Đào Duy Từ đổi khác. Qua tâu trình lên chúa Nguyễn của quan Khám lý Trần Đức Hoà trong lần về Huế 1627, bài "Ngoạ long cương" được chính thức biết đến. Anh hùng tương ngộ được anh hùng. Chúa hiền, tôi giỏi gặp nhau để bắt đầu chuyển dịch một cơ đồ...

Nguyễn Phúc Nguyên không ngần ngại khi phong tước Hầu, chức Nội Tán quân cơ cho một kẻ chăn trâu, xuất thân từ giai cấp nô tỳ hèn hạ. Với chức vị ấy, Đào Duy Từ nghiễm nhiên thành quân sư, người cố vấn tối cao cho chúa Nguyễn.

Trịnh Lê đã ruồng bỏ một nhân tài quan trọng mà sau đó chính họ đã phải trả giá đắt không thể nào lường nổi. Những năm 1648, 1655, 1657 quân Trịnh Lê toàn thảm bại liên hoàn. Luỹ Trường Dục và Luỹ Thầy do Đào Duy Từ thiết lập đã khiến Trịnh chúa phải nản lòng chinh phạt:

"Khôn ngoan qua cửa sông La"

"Hỏi ai có cánh mới qua luỹ Thầy"

Quả thật, vị quân sư đã hoàn thành xuất sắc vai trò lịch sử. Khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên gọi kẻ từng chăn trâu ấy là Thầy, cũng có nghĩa điều lệnh - về tôn xưng khi nói đến tên ông - được ban bố khắp nơi để nhân dân kính ngưỡng.


Tháng 8 năm 1625, chúa Trịnh Tráng mở khoa thi, sĩ tử khắp xứ Đàng Ngoài đều náo nức ứng thí. Trong số đó có Đào Duy Từ, nhưng, Đào Duy Từ lại đánh hỏng ngay khi chưa dự thi, lý do chỉ là vì… lý lịch xuất thân. Chuyện này khiến cho ông phẫn uất, bỏ xứ vào chúa Nguyễn ở Đàng Trong, trổ tài nơi đất lạ, Sách Trịnh - Nguyễn diễn chí (quyển 2) chép rằng:

“Bấy giờ, có người học trò quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (nay thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá ) là Đào Duy Từ, hiệu là Lộc Khê, vốn con nhà làm nghề hát xướng. Cha mẹ mất sớm nhưng nhờ bẩm tính thông minh, tuổi mới hai mươi mốt mà đã thông hiểu kinh sử kinh, kim cổ, các kinh điển Nho gia như Tứ thư (gồm Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử ) và Ngũ kinh (gồm Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ, Kinh dịch và Kinh Xuân thu ) cho đến sách của Bách Gia Chư Tử, Đào Duy Từ đều thuộc, cả đến Tam giáo (Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo ) hay Cửu lưu (chín học phái của Trung Quốc thời Chiến Quốc, gồm có: Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia, Tạp gia, Âm dương gia, Danh gia, Tung hoành gia và Nông gia ) rồi văn chương thi phú… tất tất đều tinh xảo. Nếu không phải là bậc có tài xuất quỷ nhập thần hoặc là những đấng trí giả có tài phò vua giúp nước thì quyết không thể sánh nổi với ông. Người đương thời nhân đó, khen ngợi mà gọi ông là Gia Cát (tức Khổng Minh Gia Cát Lượng ) tái sinh.

Nghe tin triều đình mở khoa thi để kén chọn hiền sĩ, Đào Duy Từ thu xếp hành trang, hăm hở định ngay lên đường ứng thí. Nhưng, khảo quan ở trường thi, theo đúng qui định, rằng hễ ai là con của những người làm nghề hát xướng, thì dẫu thông hiểu kinh sử đến đâu cũng không được đi thi, để rồi đỗ đạt mà liệt vào hạng Cổng Cử (tức đỗ Cử Nhân. Và, những ai đỗ Cử Nhân đều có thể đi thi Hội, thi Đình để đỗ đạt cao hơn ) nên không cho Đào Duy Từ tham dự. Lộc Khê Đào Duy Từ đành nuốt hận trở về, ngày đêm tìm kế lập thân. Chuyện này, anh em, họ hàng đều không ai hay biết.

Nghe đồn, chúa của đất phương Nam là Thụy Quận Công (chỉ Nguyễn Phúc Nguyên ) thường rộng ban ân đức, phong độ không khác gì vua Thuấn, vua Nghiêu (hai vị vua thời sơ sử của Trung Quốc, được Nho gia hết lời ca tụng ), chính sách cầu người hiền tài thì phỏng theo thời Đường (thời trị vì vua Nghiêu ), thời Ngu (thời trị vì của vua Thuấn ), danh tiếng vùng khắp nơi, hào kiệt đâu đâu cũng tìm đến, đã thế, xứ ấy lại mưa thuận gió hoà, thiên hạ giàu có, cảnh tượng như có đấng đế vương mới dấy lên, tương lai ắt sẽ thành nghiệp lớn… cho nên, Lộc Khê tin là nếu vào đó, công danh của mình chẳng mấy chốc mà được như là Trương Tử Phòng về với nhà Hán, Ngũ Tử Tư về với nhà Ngô... mai sau dẫu thế nào cũng không uổng phí một đời. Nghĩ là làm, khoảng trung tuần tháng mười, Lộc Khê lặng lẽ đốt hương bái biệt phần mộ cha mẹ và ông bà tổ tiên, rồi lên đường vào Thuận Hoá. Anh em bà con trong họ hàng, không ai hay biết gì cả.

Đi chẳng bao lâu, Đào Duy Từ đã đến địa hạt huyện Vũ Xương. Ông giả làm kẻ khù khờ mất trí, hàng ngày chỉ quanh quẩn ăn xin khắp các làng để ngầm quan sát địa thế núi sông và tìm người có thể nhờ cậy được. Đến dinh phủ của chúa đất phương Nam, ngắm các lâu đài và thành quách, thấy có khí lành hội tụ và bốc lên, Đào Duy Từ mừng lắm, chỉ hiềm một nỗi là ở nơi đô hội, thật khó khăn phân biệt kẻ tài người kém, khó có thể làm cho thiên hạ biết đến tên tuổi của mình, cho nên, ông lại đi khắp đó đây để dò xét tình hình trong xứ. Cứ thế, ngày đi, đêm nghỉ, không chút quản ngại núi cách sông ngăn, thấy cảnh chẳng kém gì đất kinh kỳ, Đào Duy Từ lại càng thêm yêu mến.

Đến phủ Hoài Nhơn (nay là đất Bình Định), thấy đất đai phì nhiêu, phong tục thuần hậu, Đào Duy Từ quyết định ở lại. Ông tìm đến các làng, xin làm đầy tớ để có chỗ nương thân, nhưng tìm mãi vẫn chưa được nơi vừa ý, bởi vậy, ông đành nghỉ tạm nơi quán nước.

Sóng có lớp có lang, chuyện cũng có khúc có đoạn. Trong khi ngồi uống nước, Đào Duy Từ nghe người trong quán trò chuyện, thường hay nhắc đến tên của quan Khám Lý Cống Quận Công (tức Trần Đức Hoà ), người ở xã Bồ Đề (nay thuộc huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định ) là anh em kết nghĩa của chúa phương Nam. Ở phủ của chúa phương Nam, hễ quan Khám Lý bàn điều gì, chúa phương Nam đều nghe theo cả. Ông ấy lại còn được quyền tự do ra vào trong cấm dinh. Quan Khám Lý giàu có, mưu trí và đảm lược, có thể đủ tin cậy để lo nghiệp lớn. Đào Duy Từ nghe vậy thì rất mừng, thầm nghĩ, nếu quả như lời thì tìm tới đó, thế nào ta cũng có đường lập thân. Đào Duy Từ tìm vào thôn Tùng Châu, cách xã Bồ Đề của quan Khám Lý một con sông nhỏ. Trong thôn ấy có nhà phú ông, cũng là bậc hào phú tính thích văn chương, biết trọng kẻ sĩ. Ông thường bày mâm cỗ rượu thịt, mời các bậc Nho gia đến dự tiệc và giảng bàn kinh sử, luận việc cổ kim cùng các sự tích, cốt làm sáng tỏ đại đạo của thánh hiền. Gia sản ông rất lớn, ruộng nương vô số, trâu bò ngàn con, của cải không biết bao nhiêu mà kể. Ông ta cần người chăn dắt trâu bò, nhưng công việc này lại rất khó kiếm được người. Đào Duy Từ biết được, lòng lấy làm mừng, bèn tìm đến, giả làm người ăn xin. Lúc ấy, ông ta đang dạo bước trước sân, liếc mắt thấy Đào Duy Từ mặt mũi khôi ngô, dáng người tuấn tú, có cốt cách phong độ của nhà Nho. Đào Duy Từ bước tới cúi chào xin ăn. Ông ta nói:

- Nhà ngươi quê quán ở đâu, từng làm việc gì, cha mẹ có còn hay không mà áo quần rách rưới đến vậy. Trong bốn hạng dân (gồm sĩ, nông, công và thương), lẽ đâu không có hạng nào phù hợp, để đến nỗi phải gõ cửa ăn xin cho khổ tấm thân. Ngươi bất tài lại lười biếng nên không ai dung nạp chăng? Trong những lẽ trên, ngươi hãy lần lượt nói cho có đầu có đũa để ta nghe thử coi.

Đào Duy Từ nói dối rằng:
- Tiểu tử chỉ là dân ngụ cư ở Thuận Hoá, cha mẹ mất sớm mà bà con họ hàng cũng chẳng còn ai, cho nên mới lênh đênh khổ sở. Tiểu tử cũng muốn học lấy một nghề nhưng không có cách gì học được, mà tuổi cũng đã lớn rồi, ai người ta chịu nuôi cho ăn học, vì vậy mà cam lòng ăn xin cho qua ngày đoạn tháng. Nay nghe đồn quý ông có trâu bò nhiều đến cả ngàn mà thiếu người chăn dắt, tiểu tử xin được gửi thân làm kẻ chăn trâu, mong sao được nhờ vả bát cơm thô, cốt thoát cảnh đói rét.

Ông ta nghe nói thì động lòng, cứ chặc lưỡi than tiếc mãi không thôi, đồng thời nhận cho vào ở. Từ đó, Đào Duy Từ trở thành người chăn trâu, nhưng cho dẫu lùa trâu vào núi hay ra bãi, Đào Duy Từ thường chỉ chọn hướng đông hoặc hướng tây mà thôi. Ở nơi nghỉ chân, Đào Duy Từ đều giấu sẵn sách vở để học, còn mỗi tối về nhà thì lại giả làm kẻ khù khờ, nhưng lại rất thận trọng trong cách nói năng, quyết không bao giờ tranh cãi đúng sai với người khác. Thậm chí, có khi Đào Duy Từ còn lánh ra nằm riêng, chưa lần nào tỏ ra khinh suất trong giao tiếp, vì thế, chẳng ai biết Đào Duy Từ là người như thế nào, chỉ cho là đứa ở chăn trâu ngu ngốc, không thèm hỏi han”.

Lời bàn:

Xưa, xướng ca bị coi là một trong những nghề thấp hèn, con cái của những người làm nghề thấp hèn thì nhất thiết không được đi thi. Bất công thì quả có bất công thật, nhưng phép cũ là vậy, biết sao hơn được, xưa mà! Song lẽ, có cái gì trong phép xử thế của Đào Duy Từ, càng nghĩ càng thấy chẳng chút gì là xưa.

Muôn đời đều vậy, phàm là kẻ sĩ chân chính thì bao giờ cũng tự tìm cho mình một hướng đi rõ ràng và đúng đắn. Thiên hạ có điều gì không biết thì đến hỏi kẻ sĩ, lẽ đâu có chuyện ngược đời, kẻ sĩ phải đi nhờ người ít học chí vẽ. Chí lập thân của Đào Duy Từ quả là lớn lao và đáng kính lắm thay.

Có người nói rằng, Đào Duy Từ bỏ xứ ra đi như thế là phản nước hại dân. Thực ra thì thời ấy, Đàng Ngoài và Đàng Trong tuy đối nghịch sâu sắc về quyền lực, nhưng bản chất hai bên lại chẳng khác gì nhau. Đào Duy Từ vượt khỏi biên giới Đàng Ngoài nhưng làm sao lại có thể nói ông là người phản nước hại dân. Nói theo một cách nào đó, không chừng tự đẩy mình về… phe của chúa Trịnh, chí nguy!

Giữa một bên là kẻ sĩ thực sự đóng vai người khờ, với một bên là thực sự người khờ đóng vai kẻ sĩ, không thể nói trước là bên nào dễ hơn, bởi vì kẻ sĩ khó mà giấu được tài, còn kẻ khờ thì khó mà giấu được dốt. Phú ông ở thôn Tùng Châu nhận cho Đào Duy Từ vào làm thuê chỉ vì lòng hào hiệp, song, lòng hào hiệp ấy chưa đủ để Đào Duy Từ tin cậy mà bộc bạch hết tâm tình, cho nên, cam phận giữ trâu là thượng sách. Còn như kẻ ăn người ở trong nhà của phú ông có chê Đào Duy Từ, thì Đào Duy Từ cũng chẳng hề vì thế mà thấp kém hẳn đi. Cổ nhân dạy: “Yến tước an tri hồng hộc chí” (loài chim én và chim sẻ, làm sao có thể biết được chí của chi
Về Đầu Trang Go down
 
Đào Duy Từ gặp người tri kỷ
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Kẻ Sĩ :: Diễn Đàn Kẻ Sĩ :: Sơ Giao :: Nhận Định-
Chuyển đến